Recent comments

ads header

Chủ đề "hot"

50 năm nhìn lại Chiến dịch Đường 9 - Khe Sanh (Phần 1)

Chiến dịch Đường 9 - Khe Sanh
Một phần của Chiến tranh Việt Nam
KS1.jpg
Đường băng của căn cứ bị pháo của Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam bắn phá
.
Thời gian: 
+Theo Hoa Kỳ: 21 tháng 1 năm 1968 – 8 tháng 4 năm 1968
+Theo Việt Nam: 21 tháng 1 năm 1968 – 15 tháng 7 năm 1968 

Địa điểm: Khe Sanh, Quảng Trị - UTM Grid XD 852-418 

Kết quả: 
+Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam giành thắng lợi chiến lược:
+Quân Mỹ rút khỏi Khe Sanh, Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam chiếm Khe Sanh từ giữa tháng 7. 
+Trung tâm chỉ huy Hàng rào điện tử McNamara bị phá hủy. Chiến lược cắt Đường mòn Hồ Chí Minh của Hoa Kỳ thất bại. Đường mòn Hồ Chí Minh được mở rộng về phía Đông. 
+Hoa Kỳ thất bại trong mục tiêu "giữ Khe Sanh b ằng mọi giá" mà Tổng thống Johnson từng tuyên bố.
Tham chiến
Flag of the United States.svg Hoa Kỳ
Flag of South Vietnam.svg Việt Nam Cộng hòa
Lào Vương quốc Lào
FNL Flag.svg Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam
Flag of Laos.svg Pathet Lào
Chỉ huy
Flag of the United States.svg Đại tướng William C. Westmoreland (toàn chiến trường)
Flag of the United States.svg Đại tá David E. Lownds (tại chỗ)
Flag of Vietnam.svg Đại tướng Võ Nguyên Giáp (toàn chiến trường)
FNL Flag.svg Thiếu tướng Trần Quý Hai (tại chỗ)
FNL Flag.svg Thiếu tướng Lê Quang Đạo (tại chỗ)
FNL Flag.svg Đại tá Cao Văn Khánh
Lực lượng
~45.000 (sau tăng lên 69.000) trên toàn tuyến, trong đó 6.680 đóng tại Khe Sanh
Chiến dịch Pegasus:~20.000 (Sư đoàn 1 Không Kỵ, 2 trung đoàn TQLC Mỹ và 1 trung đoàn biệt kích Dù VNCH)
Chiến dịch Niagara và Chiến dịch Arc Light:Không quân chiến thuật và chiến lược Hoa Kỳ (khoảng 2.000 máy bay và 3.300 trực thăng), ném hơn 114.810 tấn bom (chỉ tính tới tháng 4, chưa kể lượng bom ném sau đó).
Hàng trăm xe tăngxe thiết giáp
Pháo binh bắn chi viện 159.000 viên đạn pháo
~40.000 trên toàn tuyến, trong đó 17.000 lính Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam bao vây Khe Sanh (Sư đoàn 304 và sư đoàn 325), 17.000 quân phòng ngự Đường 9 (Sư đoàn 320 và sư đoàn 324) thuộc lQuân Giải phóng miền Nam Việt Nam
14 xe tăng hạng nhẹ PT-76
Pháo binh bắn chi viện 10.900 viên đạn pháo.
Tổn thất
Tại Khe Sanh:
Flag of the United States.svg Mỹ: 274 chết, 2.541 bị thương (chưa kể thương vong của Biệt động quân VNCH, Sở chỉ huy tiền phương FOB-3 của Lục quân Mỹ và Quân đội Hoàng gia Lào)
Chiến dịch Scotland I và chiến dịch Pegasus:
Flag of the United States.svg Mỹ: 730 chết, 2.642 bị thương, 7 mất tích, 3 bị bắt
Flag of South Vietnam.svg VNCH:
229 chết, 436 bị thương
Dân vệ (CIDG): 1.000 - 1.500 chết, 250 bị bắt, hàng nghìn bị thương
Chiến dịch Scotland II và Chiến dịch Charlie (Từ 15 tháng 4 đến 15 tháng 7):
Gần 3.000 thương vong
Tổng cộng:
Từ 20 tháng 1 đến 14 tháng 4:
Trên 9.000 thương vong (khoảng 2.500 chết, 6.500 bị thương, 7 mất tích, 253 bị bắt)
Toàn chiến dịch: Trên 13.000 thương vong (khoảng 3.500 chết, 8.500 bị thương, vài trăm bị bắt), chưa kể vài trăm thương vong của Lục quân Mỹ và Quân đội Hoàng gia Lào
Theo Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam:~11.900 chết hoặc bị thương (trong đó có khoảng 9.000 lính Mỹ); 197 máy bay, 78 xe tăng-thiết giáp, 46 khẩu pháo, 50 kho đạn bị phá hủy
Theo Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam:
Nguồn 1: Khoảng 3.500 chết hoặc mất tích, 5.500 bị thương
Nguồn 2: 2.469 tử trận (tính từ 20 tháng 1 đến 20 tháng 7 năm 1968).
Theo Hoa Kỳ: Phát hiện 1.600 thi thể, Hoa Kỳ tuyên bố trước dư luận Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam có khoảng 10.000-15.000 người chết, nhưng báo cáo mật ước tính chỉ khoảng 5.550 chết.
Tổng cộng toàn chiến dịch:
Khoảng 9.000 - 11.000 thương vong
.
Chiến dịch Đường 9 - Khe Sanh còn được gọi là "Chiến dịch Đường 9" hay "Trận Khe Sanh", là một chiến dịch chính yếu trong chiến cục năm 1968 tại Việt Nam.
Các tài liệu Hoa Kỳ thường ghi nhận trận đánh diễn ra trong 77 ngày từ tháng 1 đến tháng 4năm 1968, và cũng chỉ đề cập đến diễn biến trong 77 ngày này, mà theo đó kết thúc với việc Thủy quân lục chiến Hoa Kỳ (TQLC) đóng ở Khe Sanh được Sư đoàn Không Kỵ số 1 cứu viện. Tuy nhiên đối với Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam thì đây chỉ là giai đoạn 1 của chiến dịch, giai đoạn 2 kéo dài từ 9 tháng 4 đến 25 tháng 7 nhằm chiếm dứt điểm Khe Sanh, cũng diễn ra rất quyết liệt. Tổng cộng 2 giai đoạn kéo dài 170 ngày, kết thúc khi lính Mỹ cuối cùng rút khỏi Khe Sanh và Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam hoàn toàn kiểm soát cứ điểm này, đánh dấu sự cáo chung của Hàng rào điện tử McNamara. Khe Sanh đã trở thành nơi mà lần đầu tiên, quân đội Hoa Kỳ phải rút bỏ một căn cứ quân sự trọng yếu bởi áp lực của đối phương.
Bởi vai trò chiến lược vô cùng quan trọng của trận đánh này, đây là một trong những trận chiến ác liệt và được bàn thảo nhiều nhất. Chỉ huy căn cứ Khe Sanh lúc đó là Đại tá Lownds (TQLC Hoa Kỳ), gồm có 1 tiểu đoàn pháo binh, 4 tiểu đoàn TQLC và sau đó nhận thêm Tiểu đoàn 37 Biệt động quân - Quân lực Việt Nam Cộng hòa, nâng tổng số quân tham chiến lên đến 6.680 người vào cuối tháng giêng.
Mục đích chủ yếu của Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam khi tấn công Khe Sanh là nhằm "nghi binh" cho các hướng tiến công chính trong Chiến dịch Tết Mậu Thân 1968, bởi:
  • Vị trí đặc biệt quan trọng của Khe Sanhgiống như "cái mỏ neo" trong bản đồ quân sự của Mỹ, đặc biệt là uy hiếp đường Hồ Chí Minh và bảo vệ vùng I chiến thuật. Đây là trung tâm chỉ huy của Hàng rào điện tử McNamara mà Mỹ đang xây dựng nhằm cắt đứt đường Hồ Chí Minh. Phá hủy được cứ điểm này thì Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam mới nhổ được "cái gai" mà Mỹ định găm vào tuyến đường chi viện chiến lược này.
  • Tập trung đánh và bao vây nhằm thu hút 1 lực lượng lớn quân Mỹ tham chiến, thu hút cả nước Mỹ hồi hộp theo dõi "Trận Điện Biên Phủ thứ 2" có thể thay đổi cuộc chiến Việt Nam.

Tầm quan trọng của Khe SanhSửa đổi

Từ năm 1962, Mỹ và VNCH đã xây một căn cứ không quân - lục quân ở một thung lũng hẻo lánh ở gần khu vực biên giới Việt-Lào, có ý nghĩa chiến lược do nằm gần tuyến vận chuyển Đường mòn Hồ Chí Minh nổi tiếng. Năm 1962, căn cứ này được Lực lượng Mũ Xanh (Green Berets) Hoa Kỳ sử dụng đầu tiên làm nơi xuất phát các phi vụ thám thính đi sâu vào vùng đất Lào. Vị trí chiến lược của Khe Sanh do đó đã gây nhiều trở ngại lớn cho sự tiếp vận từ miền Bắc vào chiến trường miền Nam.
Sau thất bại trong mùa khô 1965-1966, Robert McNamara, Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ đã nảy ra ý định thiết lập một phòng tuyến chống xâm nhập hiện đại nhất ở bờ nam sông Bến Hải để ngăn chặn đối phương. Ý tưởng của McNamara đã được 47 nhà khoa học tài ba nhất nước Mỹ tổ chức nghiên cứu thực thi. Sau ba tháng nghiên cứu, hội đồng khoa học dưới sự điều khiển của McNamara đã vạch ra một kế hoạch với tham vọng lớn:
  • Phòng tuyến ước tính có chiều rộng khoảng 20 km, từ nam vĩ tuyến 17 đến đường 9, chiều dài trên 100 km chạy song song với sông Bến Hải từ biển Đông đến Sê Pôn (Lào) trong đó hành lang mặt bằng xây dựng có bề ngang 500m sẽ được san bằng như một sân bóng.
  • Xây dựng một hệ thống đồn bốt dày đặc, cứ khoảng 2 km có 1 tháp canh khoảng 4 km có 1 căn cứ cỡ đại đội hoặc tiểu đoàn.
  • Bố trí một hệ thống công sự gồm đủ hầm hào, lô cốt kiên cố, hàng chục lớp hàng rào kẽm gai chằng chịt, xen kẽ với nhiều lớp bom mìn đủ kiểu: mìn định hướng, mìn đĩa, mìn lá, mìn Claymore, mìn chiếu sáng, lựu đạn nổ tức thì (Mỹ dự kiến sử dụng 20 triệu quả mìn và 25 triệu quả bom cỡ nhỏ). Đặc biệt phòng tuyến được trang bị phương tiện điện tử tối tân như "cây nhiệt đới", "máy thông minh", "máy phát hiện hơi người". Đây là các loại máy thu phát tiếng động tinh vi đủ cỡ 15 ngày, 3 tháng, hoặc 6 tháng thay pin một lần.
Căn cứ Khe Sanh được xác định là trung tâm của hệ thống hàng rào điện tử trên. Do đó, Khe Sanh-Quảng Trị được Mỹ xây dựng một tập đoàn phòng ngự mạnh, liên hoàn, kiên cố nhất của Mỹ ở địa đầu miền Nam Việt Nam gồm các cứ điểm Làng Vây, Chi khu quân sự Hướng Hóa, cụm cứ điểm phòng ngự sân bay Tà Cơn.
Cụm cứ điểm Tà Cơn là cái lõi của tập đoàn phòng ngự Khe Sanh của Mỹ, có chiều dài khoảng 5 km, rộng khoảng 3 km, có một đường băng dã chiến dài khoảng hơn 3.000 m đảm bảo hoạt động của máy bay C-130 Hercules và một số trực thăng vũ trang. Hệ thống công sự, vật cản được xây dựng kiên cố và liên hoàn; công sự chiến đấu bằng bê tông đúc sẵn, hố chiến đấu cá nhân có nắp bằng bao cát, một số lô cốt bằng bê tông, hầm ngầm, hệ thống giao thông hào, chiến hào liên hoàn; xung quanh bao bọc từ 6 đến 10 hàng rào dây kẽm gai các loại, các bãi mìndày đặc, xen kẽ rải "cây nhiệt đới" (thiết bị thu tin điện tử) khắp các nơi. Tuy nhiên, phía lực lượng bắn tỉa của Quân Giải phóng cũng thường lợi dụng lúc máy bay Mỹ chở quân đến sân bay Tà Cơn để tấn công, khiến lính Mỹ rất hoang mang với chiến thuật đánh nhanh, rút nhanh.

Kế hoạch của hai bênSửa đổi

Hoa KỳSửa đổi

Trong năm 1967, Quân đội Mỹ và Việt Nam Cộng đã đẩy dân thường ra khỏi các khu vực xung quanh khu vực phi quân sự vĩ tuyến 17 để tạo thành vùng "Tự do bắn phá" bất chấp lúc đó đang diễn ra mùa thu hoạch lúa gạo của người dân Quảng Trị. Quân đội Mỹ đã sử dụng hoạt động đốt nhà và đốt ruộng để buộc người dân di chuyển. Ở ngưỡng cửa năm 1968, tư lệnh quân Mỹ ở Nam Việt Nam, tướng William Westmoreland, quyết định rằng cần phải "thả mồi ngon" lùa quân địch vào bẫy, để buộc tướng Giáp phải đánh nhau theo cung cách quy ước, vốn là sở trường của quân Mỹ. Chiến dịch này mang tên Operation Scotland (từ ngày 1 tháng 11 năm 1967 đến ngày 31 tháng 3 năm 1968), nhận được sự tán thưởng của bộ sậu "diều hâu" ở Mỹ và Sài Gòn, Tổng thống Johnson cho đắp sa bàn Khe Sanh ở Nhà trắng và hằng ngày nghe "giao ban" về chiến sự ở đây. Vậy là, trong vành đai sắt dựng trên khu vực giáp giới với miền Bắc và Lào, ngoài hàng rào điện tử McNamara và hàng loạt căn cứ như Cửa ViệtCồn TiênĐông HàCam Lộ… Khe Sanh được kỳ vọng sẽ là "nam châm" hút quân Bắc Việt, để Hoa Kỳ dùng ưu thế hỏa lực tiêu diệt trong một thế trận "Điện Biên Phủ đảo ngược".
Cả Nhà TrắngLầu Năm Góc và Bộ chỉ huy viễn chinh Mỹ ở Sài Gòn (MACV) tập trung nghiên cứu chiến lệ Điện Biên Phủ (Hồ sơ nghiên cứu trận Điện Biên Phủ phục vụ riêng cho Tổng thống Johnson dày hàng chục trang). Cả MACV lẫn Bộ chỉ huy tối cao Hoa Kỳ đều đã nhận thấy Khe Sanh có một thế mạnh căn bản so với không chỉ với Điện Biên Phủ, mà với mọi pháo đài từng có trong lịch sử. Đó là Khe Sanh được hỗ trợ bởi hệ thống hỏa lực cực mạnh, chế áp độc lập từ bên ngoài, gồm hàng chục lần chiếc pháo đài bay B-52 đánh phá mỗi ngày (lấy từ Chiến dịch Arc Light, 1965-1973, theo hồ sơ mật Nhà Trắng), gồm yểm trợ đường không cự ly gần bởi lực lượng khoảng 2.000 máy bay chiến đấu khác của không quân chiến thuật, không lực của Hải quân, không lực của Thủy quân lục chiến, với tần suất 500 lần chiếc ngày, hoạt động được cả trong điều kiện tầm nhìn zero (bay hoàn toàn bằng khí tài) cũng như ban đêm. Và đây đã trở thành "chiến dịch hỗ trợ hỏa lực đường không dày đặc nhất trong lịch sử chiến tranh".
Tuy nhiên, trong số những người ở Washington tin tưởng rằng sẽ có một "Điện Biên Phủ" ở Khe Sanh, không phải nhân vật nào cũng nhất quyết rằng Mỹ chắc thắng được ở đó. Theo thư gửi Tổng thống ngày 10 tháng 1 năm 1968, một đại diện cho khuynh hướng ngờ vực này phát biểu: "Điều đáng lo ngại là sự tập trung của bộ đội Việt Nam ở Lào chống lính thủy đánh bộ đồn trú ở Khe Sanh. Tổng thống nên yêu cầu tướng Westmoreland cân nhắc lợi hại về việc rút khỏi Khe Sanh, nhất là khi Đường 9 đã bị cắt… Tổng thống cần được yên tâm rằng, tướng Westmoreland tuyệt đối tự tin về khả năng đương đầu ở Khe Sanh; vì đây chính là cơ hội tốt nhất để một Điện Biên Phủ xảy ra. Mà kẻ địch thì đang tìm kiếm một trận Điện Biên Phủ". Cho dù thông điệp đầu năm 1968 của Tổng thống Mỹ đầy khích lệ, nhưng mối lo ngại về cái dớp "Điện Biên Phủ" vẫn lơ lửng trong phòng bầu dục. Có lần, Johnson quay về phía các trợ lý quân sự và hét to: "Quỷ tha ma bắt cái trận Điện Biên Phủ kia đi!".
Nhà báo, sử gia Mỹ Stanley Karnow kể: "Tổng thống Lyndon Johnson và Washington đã nghĩ rằng Khe Sanh là một Điện Biên Phủ nữa. Và họ đã làm cả sa bàn Khe Sanh ở Washington. Thậm chí, họ còn yêu cầu tướng Westmoreland - Tư lệnh Bộ chỉ huy cố vấn Quân sự Mỹ tại miền Nam Việt Nam - phải ký giấy cam đoan không được để mất Khe Sanh vì đó là danh dự của nước Mỹ". Westmoreland sau đó đã viết rằng: "Washington lo ngại rằng một số từ ngữ nặng nề mà tôi đã nói với báo chí cần phải chấm dứt, trớ trêu thay, câu trả lời những hậu quả đó có thể là: một thảm họa chính trị".

Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và quân Giải phóng miền NamSửa đổi

Tháng 12 năm 1967, Bộ Chính trị Trung ương Đảng Lao động Việt Nam họp đã thông qua Nghị quyết (sau được Trung ương Đảng thông qua và coi là Nghị quyết Trung ương 14): “Đã đến lúc cần động viên những cố gắng lớn nhất của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ở cả hai miền, đưa cuộc chiến tranh cách mạng của ta lên một bước phát triển mới, thực hiện tiến công và nổi dậy đồng loạt để giành thắng lợi quyết định".
Qua nghiên cứu tình hình cách bố trí lực lượng cuối năm 1967, Tổng Quân ủy cùng Bộ Quốc phòng Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã vạch ra kế hoạch chiến lược năm 1968 là: Thực hiện cuộc tiến công đồng loạt vào thành phố, thị xã kết hợp với sự nổi dậy của quần chúng mở đầu cho một cuộc tổng công kích, tổng khởi nghĩa lấy chiến trường chính là Sài Gòn, Nam Bộ, Trị - Thiên - Huế, trọng điểm là Sài Gòn, Huế, Đà Nẵng. Cùng với đó, thực hiện đòn tiến công của bộ đội chủ lực nhằm thu hút, phân tán lực lượng, tiêu diệt địch mà chiến trường chính là hướng Đường 9 - Khe Sanh. Mặt trận Đường 9 - Khe Sanh sẽ thực hiện nhiệm vụ thu hút, giam chân một bộ phận quan trọng lực lượng cơ động chiến lược của địch (chủ yếu là lính Mỹ), góp phần tạo điều kiện thuận lợi cho toàn miền Nam, trước hết là khu vực Trị-Thiên-Huế thực hiện đòn chiến lược tổng tiến công Tết Mậu Thân 1968.
Để thực hiện quyết tâm chiến lược trên, ngày 6 tháng 12 năm 1967, Quân ủy Trung ương và Bộ Quốc phòng đã quyết định thành lập Đảng ủy và Bộ Tư lệnh Chiến dịch Đường 9 - Khe Sanh. Theo quyết định trên, Thiếu tướng Trần Quý Hai Phó tổng tham mưu trưởng làm tư lệnh, Thiếu tướng Lê Quang Đạo, Phó chủ nhiệm Tổng cục Chính trị làm Chính ủy mặt trận.
Quân ủy Trung ương và Bộ tổng tư lệnh, Đảng ủy Bộ tư lệnh Mặt trận Đường 9 - Bắc Quảng Trị ra nghị quyết chỉ rõ: Trong Xuân - Hè năm 1968, toàn mặt trận phải quyết tâm thực hiện tốt nhiệm vụ: tiêu diệt một bộ phận quan trọng sinh lực địch, chủ yếu là Mỹ. Khi có điều kiện thì phá vỡ một phần hệ thống phòng ngự của địch ở đường 9 và phát triển vào Trị - Thiên - Huế. Thu hút, giam chân, tiêu diệt lực lượng Mỹ - ngụy ra Đường 9 càng nhiều càng tốt.
Đối với phía Mỹ, cho đến nhiều thập niên sau khi Chiến tranh Việt Nam kết thúc, mục đích thực sự của Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam trong Chiến dịch Đường 9 - Khe Sanh vẫn còn là một điều bí ẩn. Tướng Westmoreland vẫn tin mục đích chính của Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam là chiếm giữ Khe Sanh và tạo nên một "trận Điện Biên Phủ mới". Theo đó thì đây chính là nguyên nhân vì sao Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam tập trung một lực lượng rất lớn cho trận đánh này (4 sư đoàn, trong đó 2 sư đoàn trực tiếp bao vây Khe Sanh). Nhiều ý kiến khác lại cho rằng lực lượng quanh Khe Sanh đơn giản chỉ để phục vụ mục đích phòng thủ cục bộ tại Khu phi quân sự vĩ tuyến 17, hoặc để dự phòng trong trường hợp một cuộc tấn công ra miền Bắc của quân Mỹ tương tự như Trận Inchon trong Chiến tranh Triều Tiên. Theo John Prados và Ray Stubbethì "hoặc có thể cuộc Tổng tiến công Tết là một đòn đánh lạc hướng nhằm phục vụ cho sự chuẩn bị của Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam cho một trận đánh quyết định tại Khe Sanh, hoặc Khe Sanh là một đòn đánh lạc hướng để thu hút sự chú ý của Westmoreland trong những ngày trước Tết".
Sau này, việc đối chiếu với các tài liệu của Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam đã cho thấy vế thứ hai là chuẩn xác, có nghĩa là Westmoreland thực sự đã bị đối phương dùng kế nghi binh đánh lạc hướng. Trong cuộc phỏng vấn vào tháng 9 năm 1994 của 1 đại tá Hoa Kỳ, đại tướng Võ Nguyên Giáp cho biết: ông biết khả năng không quân của Mỹ là cực mạnh khiến việc lặp lại Điện Biên Phủ là không thể, mục tiêu thực tế mà ông theo đuổi là gây cho quân Mỹ thương vong lớn khiến họ phải sa lầy, nhụt chí và cuối cùng phải tự rút khỏi đó. Thực tế ông đã đạt được mục tiêu đó sau 6 tháng giao chiến khiến quân Mỹ liên tục bị tiêu hao sinh mạng ở mức độ cao.
(Còn nữa)

Không có nhận xét nào